Khác hẳn với những đám cưới thời nay, đám cưới thời bao cấp mang tính cộng đồng cao và phần lớn đều tổ chức theo kiểu “cây nhà là vườn” Ngày 30/4/1975 miền Nam hoàn toàn giải phóng. Chiến tranh sau 30 năm chính thức kết thúc, hòa bình được thiết lập tại đất nước Việt Nam. Cuộc sống của người dân cả nước bước qua một giai đoạn mới theo sự phát triển của xã hội.
Các đám cưới trong xã hội được tổ chức long trọng hơn, nhiều nghi lễ hơn so với thời kỳ chiến tranh. Ở nhiều đám cưới ngày xưa, chú rể đèo cô dâu trên chiếc xe đạp thong dong khắp các con phố của Hà Nội. Từ trước 1954, quan niệm cưới hỏi có thay đổi đôi chút nhưng dù giàu hay nghèo vẫn phải có đầy đủ các nghi thức cơ bản. Một đám cưới bao giờ cũng bắt đầu bằng lễ chạm ngõ (có nơi gọi là dạm ngõ) sau đó là lễ ăn hỏi và cuối cùng là lễ đón dâu.
Thời gian chiến tranh phá hoại, các đám cưới chủ yếu là tiệc trà và tổ chức ở phòng cưới thuê của nhà nước. Trên phông treo ở phòng cưới bao giờ cũng dán hai con chim bồ câu bằng giấy trắng châu mỏ vào nhau, ngoài chữ Hỷ và hai chữ cái là chữ đầu của tên cô dâu, chú rể quấn quýt vào nhau lại có dòng chữ khẩu hiệu: “Vui duyên mới không quên nhiệm vụ”.
Khăn trải bàn ở phòng cưới là miếng vải hoa còn ở nhà thì phủ tấm áo mưa đủ mầu. Phần lớn chú rể đều mặc quần âu, áo sơ mi trắng “cắm thùng”, đi dép xăng đan, còn cô dâu có khi áo dài nhưng cũng có người quần lụa áo sơ mi trắng cổ lá sen, đi guốc gỗ sơn đen trên đầu cài nhành hoa giấy. Cô dâu, chú rể đều có 4-5 phù dâu, phù rể đi kèm. Đón dâu và ra phòng cưới đều có đốt pháo Trúc Bạch giòn giã, lại có cả giấy màu cắt vụn để tung lên đầu cô dâu chú rể khi bước vào phòng cưới.