Không có gì nghi ngờ rằng Vladimir Putin đã bắt đầu cuộc chiến và chịu trách nhiệm về cách nó được tiến hành. Nhưng tại sao ông ta lại làm như vậy là một vấn đề khác.
Quan điểm chủ đạo ở phương Tây cho rằng Putin là một kẻ xâm lược phi lý, khó gần với mục đích tạo ra một nước Nga vĩ đại hơn theo khuôn mẫu của Liên Xô cũ. Do đó, một mình ông ta phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về cuộc khủng hoảng Ukraine.
Nhưng tư duy đó là sai. Phương Tây, và đặc biệt là Mỹ, chịu trách nhiệm chính về cuộc khủng hoảng bắt đầu từ tháng 2 năm 2014. Hiện cuộc chiến này đã biến thành một cuộc chiến không chỉ đe dọa hủy diệt Ukraina mà còn có nguy cơ leo thang thành một cuộc chiến tranh hạt nhân giữa Nga và NATO.
Rắc rối đối với Ukraine thực sự bắt đầu tại hội nghị thượng đỉnh NATO ở Bucharest vào tháng 4 năm 2008, khi chính quyền của George W. Bush thúc đẩy Liên minh này thông báo rằng Ukraine và Gruzia “sẽ trở thành thành viên”.
Các nhà lãnh đạo Nga đã phản ứng ngay lập tức với sự phẫn nộ, cho rằng quyết định này là một mối đe dọa hiện hữu đối với Nga và thề sẽ ngăn cản nó.
Theo một nhà báo có uy tín của Nga, ông Putin đã “nổi cơn thịnh nộ” và cảnh báo rằng “nếu Ukraine gia nhập NATO, nước này sẽ làm như vậy mà không có Crimea và các khu vực phía đông. Nó chỉ đơn giản là sẽ sụp đổ. ”
Những nỗ lực này cuối cùng đã gây ra sự thù địch vào tháng 2 năm 2014, sau khi một cuộc đảo chính (được Mỹ ủng hộ) khiến tổng thống thân Nga của Ukraine, Viktor Yanukovych, phải bỏ trốn khỏi đất nước này. Đáp lại, Nga đã chiếm Crimea từ Ukraine và tiếp sức cho cuộc nội chiến bùng phát ở vùng Donbas, miền đông Ukraine.
Cuộc đối đầu lớn tiếp theo diễn ra vào tháng 12 năm 2021 và trực tiếp dẫn đến cuộc chiến hiện tại. Nguyên nhân chính là Ukraine đã trở thành một thành viên trên thực tế của NATO. Quá trình này bắt đầu vào tháng 12 năm 2017, khi chính quyền Trump quyết định bán “vũ khí phòng thủ” cho Kiev.
Tuy nhiên, những vũ khí gì được coi là “phòng thủ” hầu như không được xác định rõ ràng, và những vũ khí này chắc chắn có vẻ gây khó chịu cho Mátxcơva và các đồng minh của họ ở khu vực Donbas.
Các nước NATO khác đã vào cuộc, vận chuyển vũ khí cho Ukraine, huấn luyện các lực lượng vũ trang của nước này và cho phép nước này tham gia các cuộc tập trận chung của không quân và hải quân.
Vào tháng 7 năm 2021, Ukraine và Mỹ đồng tổ chức một cuộc tập trận hải quân lớn ở khu vực Biển Đen với sự tham gia của hải quân 32 quốc gia. Chiến dịch Sea Breeze suýt nữa đã khiêu khích Nga bắn vào một tàu khu trục của hải quân Anh cố tình đi vào vùng lãnh hải mà Nga cho là lãnh hải của mình.
Mối liên hệ giữa Ukraine và Mỹ tiếp tục phát triển dưới thời chính quyền Biden. Cam kết này được phản ánh xuyên suốt trong một tài liệu quan trọng – “Hiến chương Mỹ-Ukraina về quan hệ đối tác chiến lược” – được Antony Blinken, ngoại trưởng Mỹ và Dmytro Kuleba, người đồng cấp Ukraina của ông ký vào tháng 11. Mục đích là để “nhấn mạnh… cam kết của Ukraine đối với việc thực hiện các cải cách sâu sắc và toàn diện cần thiết để hội nhập đầy đủ vào các thể chế Châu Âu và Châu Âu-Đại Tây Dương.”
Tài liệu được xây dựng một cách rõ ràng dựa trên “những cam kết được thực hiện để củng cố mối quan hệ đối tác chiến lược giữa Ukraina-Hoa Kỳ của các Tổng thống Zelensky và Biden” và cũng nhấn mạnh rằng hai nước sẽ được hướng theo “Tuyên bố của Hội nghị thượng đỉnh Bucharest năm 2008”.
Không có gì ngạc nhiên khi Matxcơva nhận thấy tình hình đang diễn biến này là không thể dung thứ được và bắt đầu huy động quân đội của mình ở biên giới Ukraine vào mùa xuân năm ngoái để báo hiệu quyết tâm của mình với Washington.
Nhưng nó không có tác dụng, vì chính quyền Biden tiếp tục xích lại gần Ukraine. Điều này khiến Nga rơi vào tình trạng bế tắc ngoại giao hoàn toàn vào tháng 12. Như Sergey Lavrov, Bộ trưởng Ngoại giao Nga đã nói: “Chúng tôi đã đạt đến điểm sôi của mình”. Nga yêu cầu một văn bản đảm bảo rằng Ukraina sẽ không bao giờ trở thành một phần của NATO và liên minh này loại bỏ các khí tài quân sự mà họ đã triển khai ở Đông Âu kể từ năm 1997.
Cách giải thích các sự kiện này trái ngược với câu thần chú đang phổ biến ở phương Tây, trong đó miêu tả sự mở rộng của NATO không liên quan đến cuộc khủng hoảng Ukraina, thay vào đó đổ lỗi cho các mục tiêu bành trướng của ông Putin.
Theo một tài liệu gần đây của NATO gửi cho các nhà lãnh đạo Nga, “NATO là một Liên minh phòng thủ và không gây ra mối đe dọa nào đối với Nga.” Các bằng chứng có sẵn mâu thuẫn với những tuyên bố này. Đầu tiên, vấn đề không phải là các nhà lãnh đạo phương Tây nói rằng mục đích hay ý định của NATO là gì; mà cách Matxcơva nhìn nhận các hành động của NATO mới là quan trọng.
Ông Putin chắc chắn biết rằng chi phí để chinh phục và chiếm đóng một lượng lớn lãnh thổ ở Đông Âu sẽ là điều cấm kỵ đối với Nga. Như ông đã từng nói, “Ai không nhớ Liên Xô là người không có trái tim. Ai muốn Liên Xô trở lại là người không có não”.
Mặc dù vậy, niềm tin của ông về mối quan hệ chặt chẽ giữa Nga và Ukraine, việc cố gắng giành lại toàn bộ Ukraine sẽ giống như cố gắng nuốt chửng một con nhím. Hơn nữa, các nhà hoạch định chính sách của Nga – bao gồm cả ông Putin – hầu như không ai nói gì về việc chinh phục lãnh thổ mới để tái tạo Liên Xô hoặc xây dựng một nước Nga vĩ đại hơn.
Thay vào đó, kể từ hội nghị thượng đỉnh Bucharest năm 2008, các nhà lãnh đạo Nga đã nhiều lần nói rằng họ coi việc Ukraine gia nhập NATO là một mối đe dọa hiện hữu cần phải được ngăn chặn. Như ông Lavrov đã lưu ý vào tháng 1 năm nay, “chìa khóa của mọi thứ là đảm bảo rằng NATO sẽ không mở rộng về phía đông.”
Nói một cách rõ ràng, các nhà lãnh đạo phương Tây hiếm khi mô tả Nga là một mối đe dọa quân sự đối với châu Âu trước năm 2014. Như cựu đại sứ Mỹ tại Matxcơva Michael McFaul lưu ý, việc chiếm Krưm của ông Putin không được lên kế hoạch lâu dài; đó là một động thái bốc đồng để đáp lại cuộc đảo chính lật đổ nhà lãnh đạo thân Nga của Ukraine.
Trên thực tế, cho đến thời điểm đó, việc mở rộng NATO là nhằm biến toàn bộ châu Âu thành một vùng hòa bình khổng lồ, không chứa đựng một nước Nga nguy hiểm.
Tuy nhiên, một khi cuộc khủng hoảng bắt đầu, các nhà hoạch định chính sách Mỹ và châu Âu đã không chịu thừa nhận rằng họ đã kích động nó bằng cách cố gắng hội nhập Ukraina vào phương Tây. Họ tuyên bố nguồn gốc thực sự của vấn đề là chủ nghĩa xét lại của Nga và mong muốn thống trị nếu không muốn nói là chinh phục Ukraine.

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ tại thời điểm diễn ra hội nghị thượng đỉnh Bucharest, Robert Gates, đã nhận ra rằng “việc cố gắng đưa Gruzia và Ukraine vào NATO thực sự là hành động quá mức”.
Thật vậy, tại hội nghị thượng đỉnh đó, cả Thủ tướng Đức Angela Merkel và Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đều phản đối việc Ukraine tiến tới trở thành thành viên NATO vì họ sợ điều này sẽ khiến Nga tức giận.
Kết quả của cách giải thích của tôi là chúng ta đang ở trong một tình huống cực kỳ nguy hiểm, và chính sách của phương Tây đang làm trầm trọng thêm những rủi ro này.
Đối với các nhà lãnh đạo của Nga, những gì xảy ra ở Ukraine hầu như không liên quan đến việc tham vọng đế quốc của họ bị cản trở; đó là về việc đối phó với những gì họ coi là mối đe dọa trực tiếp đối với tương lai của Nga.
Ông Putin có thể đã đánh giá sai khả năng quân sự của Nga, tính hiệu quả của cuộc kháng chiến của người Ukraine, cũng như phạm vi và tốc độ phản ứng của phương Tây, nhưng người ta đừng bao giờ đánh giá thấp mức độ tàn nhẫn của các cường quốc khi họ tin rằng họ đang ở trong thế khốn cùng.
Tuy nhiên, Mỹ và các đồng minh của họ đang tăng tiền cược gấp đôi, hy vọng gây ra một thất bại nhục nhã đối với ông Putin và thậm chí có thể kích hoạt việc loại bỏ ông ta. Họ đang tăng cường viện trợ cho Ukraina trong khi sử dụng các biện pháp trừng phạt kinh tế để giáng đòn trừng phạt lớn lên Nga, một bước đi mà Putin hiện tại coi là “giống như một lời tuyên chiến”.
Mỹ và các đồng minh có thể ngăn cản chiến thắng của Nga ở Ukraina, nhưng nước này sẽ bị thiệt hại nặng nề, nếu không muốn nói là tan rã. Hơn nữa, có một mối đe dọa leo thang nghiêm trọng bên ngoài Ukraina, chưa kể đến nguy cơ chiến tranh hạt nhân.
Nếu phương Tây không chỉ ngăn cản Matxcơva trên chiến trường Ukraina mà còn gây thiệt hại nghiêm trọng, lâu dài cho nền kinh tế của Nga, thì điều đó thực sự đang đẩy một cường quốc đến bờ vực. Ông Putin sau đó có thể chuyển sang sử dụng vũ khí hạt nhân.
Tại thời điểm này, không thể biết xung đột này sẽ được giải quyết với các điều kiện nào. Tuy nhiên, nếu chúng ta không hiểu nguyên nhân sâu xa của cuộc chiến, chúng ta sẽ không thể kết thúc nó trước khi Ukraine bị tàn phá và NATO phải đối mặt với một cuộc chiến với Nga.
(Cù Tuấn dịch từ The Economist)