Phật giáo hiện nay tồn tại 3 tông phái mà không phải Phật tử nào cũng phân biệt được. Đó là Phật giáo Bắc Tông (CHINESE CANON), Nam Tông (PALI CANON), Tây Tạng (TIBETAN CANON). Bài viết dưới đây sẽ cho các bạn cái nhìn rõ nhất để phân biệt 3 tông phái trên.
Thứ tạo ra khác biệt trước tiên đối với những tông phái Phật giáo chính là những quốc gia, những vương quốc đầu tiên mà Phật giáo được truyền đạt tới. Chúng ta có thể thấy là những kinh sách, triết lý, những lý luận triết học của Phật giáo là rất đa dạng ngay từ khi còn ở Ấn Độ và chưa lan truyền sang những quốc gia khác.
Như vậy, đối với mỗi nhà truyền giáo, họ sẽ cân nhắc trong từng hoàn cảnh hoàn cảnh lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội, các yếu tố tín ngưỡng bản địa của từng quốc gia-vương quốc đó, và họ chọn ra 1 vài quan điểm, 1 vài tư tưởng hay 1 vài tập kinh phù hợp để có thể nhấn mạnh và truyền đạt hiệu quả nhất cho người dân địa phương.
Trong một số trường hợp, người truyền giáo còn cải biên và viết thêm kinh kệ mới cho Phật giáo cho những vùng này. Từ đó, các tông phái Phật giáo sẽ rất khác biệt từ cách tu tập, cách lý giải các sự vật hiện tượng, cách tiếp cận đến quần chúng, và đặc biệt là cách để đạt được Niết bàn.
Trước tiên, để tìm hiểu mặt hệ thống của Phật giáo thì chúng ta cần tìm hiểu về hệ thống kinh kệ trước. Cho đến nay, kinh kệ Phật giáo được bảo toàn bởi 3 hệ thống có tầm ảnh hưởng lớn nhất là Pali Canon, Chinese Canon và Tibetan Canon.
Hệ thống kinh kệ Pali, hay còn gọi là hệ thống kinh kệ tiếng Phạn, là hệ thống được xem là có tính thẩm quyền cao nhất, vì tiếng Phạn được xem là ngôn ngữ gốc của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Gautama Buddha), là bộ kinh kệ được hoàn thiện sớm nhất cà gần gũi về mặt địa lý, văn hóa nhất với Đức Phật.
Tuy nhiên, điều này cũng không lấy đi tính thẩm quyền của hệ thống kinh kệ Chinese Canon, là hệ thống kinh kệ chữ Hoa. Hầu hết những nhà nghiên cứu Phật giáo xuất sắc nhất của Ấn Độ cũng đều đã đến Trung Hoa và phát triển riêng các trường phái Phật giáo của mình. Chỉ đến tầm thế kỷ thứ X, hầu như tất cả các sách vở kinh điển của Phật giáo đều đã được chuyển thành chữ Hoa. Như vậy, tông phái này cũng đã có hơn cả thiên niên kỷ để phát triển các triết lý Phật giáo.
Cuối cùng, chúng ta có nhóm kinh điển Tibetan Canon, là nhóm kinh kệ được hoàn thiện muộn nhất vào khoảng thế kỷ XV, tuy nhiên, đến hiện tại, đây là nhóm kinh điển có tầm ảnh hưởng lớn nhất đến phương Tây, một phần bởi sự ảnh hưởng của đức Dalai Lama.
Phật giáo Bắc Tông (Chinese Canon)
Đây là nhóm tông phái Phật giáo có ảnh hưởng lớn nhất đối với nước ta. Toàn bộ các tông phái Phật giáo xuất phát từ Chinese Canon đều được người Việt Nam gọi chung là Phật giáo Bắc truyền hay Phật giáo Đại thừa hay Mahayana.

Có 10 nhóm nhỏ trong đó:
1. Thiền tông (Zen Buddhism): được đưa vào Trung Quốc đầu tiên bởi thiền sư người Ấn Độ Bodhidharma/Bồ Đề Đạt Ma. Thiền tông không chỉ tập trung vào thiền, mà thứ họ xem trọng nhất là trí não, tư duy lý tính, năng lực tự giác ngộ, tự khai sáng của con người. Bản thân trong Thiền tông cũng có rất nhiều nhánh khác nhau, có thể kể đến Lâm Tế Tông (cho rằng việc trò chuyện, tranh biện, thách thức khả năng trí tuệ của người tu tập là con đường tốt nhất dẫn tới giác ngộ), Tào Động Tông (tập trung vào ngồ thiền, từ từ giác ngộ)… Thiền tông có ảnh hưởng to lớn đối với các triều đại phong kiến Việt Nam. Lăng nghiêm kinh/Surangama Sutra là bộ kinh được ưa chuộng nhất của phái Thiền tông.
2. Tịnh độ tông (Jingtu/Jōdo): đặt trọng tâm vào kinh Vô lượng thọ và kinh A di đà. Tông phái này cho rằng những con người nếu tu tập một cách chân thành, thường xuyên, cải thiện tâm tính, làm điều thiện, họ sẽ được tái sinh ở nơi Tịnh độ/Tây thiên – nơi họ sẽ có điều kiện để tu tập hoàn chỉnh và thoát khỏi vòng luân hồi. Tịnh độ tông nhấn mạnh vào sự cứu độ chúng sinh của Đức Phật. Câu chú Nam Mô A Di Đà Phật cũng là câu chú đặc trưng và riêng biệt của những người tu tập theo trường phái Tịnh độ tông.
3. Thiên Thai (Tendai): thiết lập một quá trình tu tập dần dần từ dễ đến sâu sắc nhất, cân bằng giữa học và hành.
4. Hoa Nghiêm Tông (Huayan/Kegon): lấy Hoa Nghiêm Kinh/Avataṃsaka Sūtra là tiêu điểm. Đây là trường phái thú vị về mặt triết học, nhấn mạnh sự phụ thuộc lẫn nhau của tất cả mọi người và hiện tượng và sự đan xen vào thế giới của họ. Cá nhân ảnh hưởng đến thế giới, và thế giới ảnh hưởng đến cá nhân. Triết học Hoa Nghiêm cũng nhấn mạnh các hoạt động của các vị bồ tát trên thế giới để mang lại lợi ích cho tất cả chúng sinh.
5. Tam luận tông (Sanlun/Madhyamaka) dựa vào các kinh Bát nhã và làm theo Kinh điển Akṣayamatinirdeśa để khẳng định rằng những kinh điển này tiết lộ ý nghĩa dứt khoát của những lời dạy của Đức Phật.
6. Duy thức tông (Faxiang/Hossō): dựa trên Giải thâm mật kinh, Yogācāryabhūmi Śāstra, Vijñaptimātrasiddhi Śāstra, và các luận thuyết khác của Maitreya, Asaṅga, và Vasubandhu. Huyền Trang đã dịch những cuốn kinh này và thuyết giảng đến chúng sinh sau khi ông từ Ấn Độ trở về (sự kiện Tây Du Ký).
7. Chân ngôn tông (Zhenyan/Shingon): giải thích các thực hành yoga tantra, chưa bao giờ phổ biến ở Trung Quốc, được Kukai đưa đến Nhật Bản và vẫn còn tồn tại ở đó.
8. Luật tông (Lu/Ritshū): chủ yếu dựa trên bộ vinaya Dharmaguptaka, được dịch sang tiếng Trung Quốc vào năm 412.
9. Thành thật tông (Chengshi/Jōjitsu), hiện nay không còn tồn tại, dựa trên Satyasiddhi Śāstra, một văn bản kiểu Abhidharma bàn về tính không giữa các chủ đề khác nhau.
10. Vi Diệu Pháp (Kośa/Kusha) dựa trên Câu xá luận/Thông minh luận của Thế Thân và được Huyền Trang đưa vào Trung Quốc, phổ biến trong thời đại nhà Đường – “thời kỳ hoàng kim của Phật giáo”, bây giờ chỉ còn rất nhỏ.
Phật giáo Nam Tông (Pali Canon)
Nhóm Pali Canon/Phật giáo Nam tông/Phật giáo Tiểu thừa/Theravada thường không có nhiều tông phái như Bắc truyền, chủ yếu bởi họ học và dịch trực tiếp từ ngôn ngữ gốc của Đức Phật, nên mặc dù đi qua Sri Lanka, Thái Lan, Đông Nam Á, nội dung của những bộ kinh này không được chuyển ngữ nên không bị thay đổ Theravada nếu dịch sát nghĩa theo tiếng Anh: Thera = Elder = Thượng tọa, Vada = Words/Doctrines = Quy tắc/Bộ.

Đây là lý do chúng ta có một từ Hán Việt là Thượng tọa bộ = Quy tắc của những thượng tọa. Sự khác biệt cơ bản của Phật giáo Nam tông với Bắc tông có thể bắt đầu từ khái niệm Tiểu thừa/Hinayana/Lesser Vehicle/Cổ xe nhỏ với Đại thừa/Mahayana/Greater Vehicle/Cổ xe lớn.
Đại thừa cho rằng ai cũng có thể trở thành Bồ tát/Bodhisattva, việc có thể trở thành Phật hay Bồ tát là chuyện của toàn bộ chúng sinh và các Bồ tát là những người có thể “cứu độ chúng sinh”, giúp những người đang tu tập trên thế giới tìm thấy được con đường của mình.
Tiểu thừa tập trung vào từng con đường tu cụ thể, Khai sáng mang tính cá nhân. Ở điểm này, chúng ta có thể thấy Phật giáo Đại thừa có tính đại chúng lớn hơn: một người không nhất thiết phải có đời sống tôn giáo, tu tập như các Tỳ Kheo mới có thể chứng được Niết Bàn.
Trong khi đó, đối với Theravada, mỗi người cần phải tự tu tập, tự tìm con đường. Theravada rất hạn chế danh xưng Bồ tát cho người thường. Đối với Theravada, chỉ có 1 Phật là Phật Thích Ca/Gautama Buddha. Điều này rất khác biệt với Mahayana, vì đối với hệ thống truyền thông của Mahayana, Phật là một hệ thống rất nhiều người, có lớp lang, có tổ chức. Điều này cũng đồng nghĩa với việc sẽ có nhiều ngôi chùa trong tông phái Mahayana không thờ Phật Thích Ca và việc đạt được danh xưng Bồ tát là khả dĩ cho tất cả mọi người.
Ngoài ra, cách tiếp cận về Niết bàn của Theravada và Mahayana cũng khác biệt nhau. Đối với Theravada, Niết bàn khá trừu tượng, không thể mô tả bằng giác quan, không tồn tại trong thế giới vật chất thông thường . Đó là trạng thái thức tỉnh/awakening, sự giải phóng khỏi ham muốn, con người dập tắt ngọn lửa của Khổ đế hình thành bởi sự bám víu, tham vọng, si mê, thoát khỏi Samsara/Luân hồi. Đối với Mahayana, ít nhất là đối với Đại chúng, Niết bàn được hiểu là một cõi, Phật A Di Đà/Amitabha tạo ra một cõi Tịnh độ gần giống như Thiên đường. Những người tin tưởng có thể thoát khỏi Luân hồi bằng cách tái sinh ở vùng đất cực lạc.
Theravāda ngày nay có nguồn gốc từ Sthaviravāda, một trong mười tám trường học ở Ấn Độ cổ đại. Biên niên sử lịch sử Sinhala Dīpavaṃsa đã sử dụng tên Theravāda vào thế kỷ IV để mô tả các Phật tử trên đảo.
Có ba phân nhóm Theravāda, mỗi nhóm có một tu viện mang tên của nó: Abhayagiri (Dharmaruci), Mahāvihāra, và Jetavana. Abhayagiri Theravādins có mối liên hệ chặt chẽ với Ấn Độ và mang nhiều yếu tố tiếng Phạn. Những người Jetavanins cũng làm điều này, nhưng ở mức độ thấp hơn, trong khi những người Mahāvihārins duy trì những giáo lý Theravāda chính thống.
Vào thế kỷ XII, nhà vua đã bãi bỏ các truyền thống Abhayagiri và Jetavana và kết hợp các tu sĩ đó với Mahāvihāra, từ đó vẫn còn nổi bật. Phật giáo bị tổn thất nặng nề sau khi thủ đô Sri Lanka rơi vào tay lực lượng Coḷa vào năm 1017. Các Tỳ kheo và Tỳ kheo ni đã bị phá hủy, mặc dù trật tự Tỳ khưu đã được khôi phục khi vua Sri Lanka mời các nhà sư từ Miến Điện đến và truyền giới. Phật pháp lại phát triển mạnh ở Sri Lanka, và Sri Lanka được coi là trung tâm của thế giới Theravāda.
Khi tình trạng của giáo lý Theravāda hoặc các dòng truyền giới của nó ở một quốc gia bị ảnh hưởng bất lợi, các nhà lãnh đạo sẽ yêu cầu các nhà sư từ một quốc gia Theravāda khác đến và xuất gia. Điều này đã tiếp tục cho đến ngày nay.
Phật giáo Tây Tạng (Tibetan Canon)
Phật giáo Tây Tạng bắt nguồn từ các tu viện của Ấn Độ như Nālandā từ những thế kỷ đầu của Kỷ nguyên Chung và kéo dài cho đến đầu thế kỷ 13, Nālandā và các viện khác bao gồm nhiều học giả và hành giả uyên bác nhấn mạnh các kinh điển khác nhau và tán thành nhiều nguyên lý triết học Phật giáo.
Phật giáo đến Tây Tạng lần đầu tiên vào thế kỷ thứ bảy thông qua hai người vợ của quốc vương Tây Tạng Songtsen Gampo,một là công chúa Nepal và một là công chúa Trung Quốc, người đã mang các bức tượng Phật giáo đến Tây Tạng, ngay sau đó là các văn bản Phật giáo bằng tiếng Phạn và tiếng Trung. Từ cuối thế kỷ XVIII trở đi, người Tây Tạng ưa thích các văn bản đến trực tiếp từ Ấn Độ, và những văn bản này đã tạo thành phần lớn văn học Phật giáo được dịch sang tiếng Tây Tạng.

Phật giáo phát triển mạnh ở Tây Tạng dưới thời trị vì của Vua Trisong Detsen, người đã mời nhà sư, triết gia Madhaymaka, và nhà logic học Śāntarakṣita từ Nālandā và yogi Mật tông Ấn Độ Padmasambhava đến Tây Tạng. Śāntarakṣita xuất gia cho các nhà sư Tây Tạng, thành lập saṅgha ở Tây Tạng, trong khi Đức Liên Hoa Sinh ban các cuộc điểm đạo và giáo lý Mật thừa. Śāntarakṣita cũng khuyến khích nhà vua Tây Tạng dịch các văn bản Phật giáo sang tiếng Tây Tạng. Vào đầu thế kỷ thứ chín, nhiều bản dịch đã được thực hiện, và một ủy ban gồm các học giả Tây Tạng và Ấn Độ đã chuẩn hóa nhiều thuật ngữ kỹ thuật và biên soạn một bản chú giải tiếng Phạn-Tây Tạng.
Tuy nhiên, Phật giáo bị đàn áp dưới thời trị vì của Vua Langdarma, và các cơ sở tu viện bị đóng cửa. Vì các văn bản không còn nữa, việc thực hành của mọi người trở nên rời rạc và họ không còn biết cách thực hành tất cả các giáo lý khác nhau như một thể thống nhất.
Vào thời điểm quan trọng này, Atiśa một học giả-hành giả theo truyền thống Nālandā, đã được mời đến Tây Tạng. Để sửa chữa những quan niệm sai lầm, ông đã viết Bodhipathapradīpa, giải thích rằng cả giáo lý kinh điển và tantra đều có thể được thực hành bởi một cá nhân một cách có hệ thống, không theo chiếu lệ. Kết quả là, mọi người hiểu ra rằng kỷ luật tu viện của Luật tạng, lý tưởng bồ tát của Kinh tạng, và các thực hành chuyển hóa của Kim cương thừa có thể được thực hành theo cách bổ sung lẫn nhau. Các tu viện lại được xây dựng, và Phật pháp phát triển mạnh mẽ ở Tây Tạng.
Phật giáo ở Tây Tạng trước thời Atiśa được gọi là trường phái Nyingma hay “bản dịch cũ”. Những dòng giáo lý mới vào Tây Tạng bắt đầu từ thế kỷ thứ mười một đã trở thành những trường phái “dịch mới” (sarma), và những dòng giáo lý này từ từ được kết tinh để hình thành nên các truyền thống Kadam, Kagyu và Sakya. Dòng dõi Kadam cuối cùng được gọi là truyền thống Gelug.
Tất cả bốn truyền thống Phật giáo Tây Tạng tồn tại ngày nay — Nyingma, Kagyu, Sakya, và Gelug — đều nhấn mạnh đến Cỗ xe Bồ tát, tuân theo cả kinh điển và mật điển, và có quan điểm triết học Madhyamaka. Theo gương của Śāntarakṣita, nhiều người xuất gia Tây Tạng tham gia vào việc nghiên cứu và tranh luận nghiêm túc ngoài thiền định. Một số người nói bậy trong quá khứ — các thuật ngữ “Lạt ma giáo”, “phật sống” và “vua chúa” – thật không may vẫn tồn tại.
Những người phương Tây tiếp xúc với Phật giáo Tây Tạng vào thế kỷ 19 đã gọi nó là Lạt ma giáo, một thuật ngữ ban đầu do người Trung Quốc đặt ra, có lẽ vì họ thấy quá nhiều nhà sư ở Tây Tạng và nhầm tưởng tất cả họ đều là Lạt ma (thầy). Hoặc có lẽ họ đã nhìn thấy sự tôn trọng mà các đệ tử dành cho thầy của họ và lầm tưởng rằng họ tôn thờ thầy của mình.
Trong cả hai trường hợp, Phật giáo Tây Tạng không nên được gọi là Lạt ma giáo. Các Lạt ma và tulkus (hóa thân được xác định của các bậc thầy tâm linh) được tôn trọng trong xã hội Tây Tạng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, những danh hiệu này chỉ đơn giản là địa vị xã hội, và việc gọi một số người nhất định là tulku, rinpoche, hoặc lama đã dẫn đến tham nhũng. Tôi buồn khi mọi người đặt quá nhiều giá trị vào các danh hiệu. Phật giáo không phải là về địa vị xã hội. Điều quan trọng hơn là kiểm tra trình độ và phẩm chất của một người trước khi coi người đó làm người cố vấn tinh thần cho một người. Nhà giáo phải siêng năng rèn luyện và đáng được tôn trọng, dù có danh hiệu hay không. Một số người lầm tưởng rằng vì tulkus được công nhận là hóa thân của các đạo sư Phật giáo vĩ đại trước đó, họ phải là Phật và do đó gọi họ là “phật sống” (C. huofo).
Tuy nhiên, không phải tất cả các tulkus đều là bồ tát, chứ đừng nói đến phật. “God king” có thể bắt nguồn từ báo chí phương Tây và được gán cho vị trí của Đạt Lai Lạt Ma. Vì người Tây Tạng coi Đức Đạt Lai Lạt Ma là hiện thân của Avalokiteśvara, vị bồ tát của lòng từ bi, những nhà báo này cho rằng ông là một “vị thần”, và vì ông là nhà lãnh đạo chính trị của Tây Tạng nên ông được coi là một vị vua.
Tuy nhiên, Dalai Lama nhiều lần nhắc nhở mọi người rằng ông là một tu sĩ Phật giáo giản dị, không hơn không kém. Đạt Lai Lạt Ma không phải là một vị thần, và vì Cơ quan Hành chính Trung ương Tây Tạng đặt tại Dharamsala, Ấn Độ, hiện do một thủ tướng đứng đầu, nên ông không phải là một vị vua. Một số người lầm tưởng vị trí của Dalai Lama giống như giáo hoàng Phật giáo.
Bốn truyền thống Phật giáo Tây Tạng chính và nhiều chi nhánh phụ của họ hoạt động ít nhiều độc lập. Các sư trụ trì, rinpoches và các giáo viên đáng kính khác thỉnh thoảng gặp nhau để thảo luận về các vấn đề hai bên cùng quan tâm dưới sự bảo trợ của Cục Văn hóa và Tôn giáo Trung ương Tây Tạng. Đức Đạt Lai Lạt Ma không kiểm soát các quyết định của họ.
Tương tự, Đức Đạt Lai Lạt Ma không phải là người đứng đầu của bất kỳ truyền thống nào trong bốn truyền thống. Gelug do Ganden Tripa đứng đầu, một vị trí luân phiên, và các truyền thống khác có các phương pháp tuyển chọn lãnh đạo riêng.